Từ xưa đến nay, vùng Châu Đốc – An Giang luôn là trọng tâm cho nhiều đề tài nghiên cứu về các câu chuyện tâm linh, huyền tích chưa lời giải mã. Nổi bật trong số này có thể kể đến huyền tích Bà Chúa xuất hiện trên núi Sam được lưu danh sử sách khi độ linh thiêng khiến người đời phải tôn nễ, giặc xâm lăng phải mất mạng và kẻ cướp phải điếng hồn. Tuy những câu chuyện, lời thoại, ấy đã hơn 200 năm, nhưng khi nhắc lại vẫn làm nhiều người sửng sốt và không thể nào lý giải được. Để rõ hơn những điều này như thế nào, Godidigo.com xin mời bạn cùng về An Giang tham quan và tìm hiểu tại Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam.
Nội dung bài viết
Miếu Bà Chúa Xứ ở đâu?
Được biết, trong số những công trình kiến trúc nghệ thuật tại miền Tây nói chung và An Giang nói riêng thì miếu Bà Chúa Xứ là một công trình kiến trúc nghệ thuật vô cùng độc đáo được Bộ Văn Hóa Thông Tin này là Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1980.
Miếu Bà Chúa Xứ hiện tọa lạc tại chân Núi Sam (gần với lăng Thoại Ngọc Hầu, cách lăng khoảng chừng 90 về hướng Bắc và Tây An Cổ Tự khoảng 150m về hướng Nam) thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Lịch sử Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam (Châu Đốc, An Giang)
Theo ghi chép, miếu Bà được xây dựng vào những năm khoảng đầu thế kỷ XVIII bằng nguyên vật liệu đơn sơ. Về sau năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước.
Đến năm 1962 thì tiếp tục được được tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Ba năm sau đó (1965), miếu Bà được Hội quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu.
Tiếp tục đến năm 1972, hai kiến trúc sư nổi tiếng là Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng đã tái thiết lớn ngôi miếu trên bảng vẽ của mình trong khoảng thời gian 4 năm trên một dáng vẻ mới rất uy nghi đầy lộng lẫy.
Từ năm 1976 trở đi, Miếu Bà được nhiều lần mở rộng, trùng tu và xây dựng. Đến nay, sau bao kiến thiết, ngôi miếu có tổng thể kiến trúc dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng.
Bên trong miếu có võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban quý tế và nhiều phòng khác. Nổi bật trong phong cách kiến trúc này là các hạng mục đều mang đậm nét nghệ thuật Ấn Độ khi được thiết kế và trang trí nhiều hoa văn nguy nga trên cổ lâu chính điện, phía trên cao là các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giang tay đỡ những đầu kèo. Và đặc biệt là các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo, nhất là có nhiều liễn đối, hoành phi được họa tiết rực màu vàng son.
Chính từ điều này mà sau được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1980.
Trung tâm sách kỷ luật Việt Nam đã công nhận là công trình có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại Việt Nam. Gần 30 sau (2009), thì sách Kỷ lục An Giang tiếp tục ghi nhận, tượng Bà Chúa Xứ là “pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam”, và “có áo phụng cúng nhiều nhất” trong những tượng thờ ở miền Tây.
Ly kỳ những truyền thuyết về Miếu Bà Chúa Xứ
Có thể nói rằng, trong số những câu chuyện tâm linh, huyền bí chưa lời giải mã của vùng đất Thất Sơn thì Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là nơi lưu giữ nhất. Những câu chuyện này có thể không dài, nhưng sự huyền bí của nó có thể làm nhiều người kinh ngạc vì không hiểu lí do vì sao. Trong đó, chuyện Bà Chúa Xứ giúp Thoại Ngọc Hầu đào kênh Vĩnh Tế, tướng giặc Xiêm mất mạng và chuyện 9 cô gái đồng trinh dời tượng Bà xuống núi là một điển hình.
Bà Chúa Xứ giúp Thoại Ngọc Hầu đào kênh Vĩnh Tế
Đến nay, ngôi miếu ra đời vào thời gian nào vẫn còn là một dấu hỏi với nhiều người. Tuy nhiên, theo nhận định của một số nhà nghiên cứu thì Miếu Bà Chúa Xứ được nhân dân xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, thời vua Minh Mạng mà tiêu điểm là khi ông Thoại Ngọc Hầu vâng mệnh vua về trấn giữ vùng đất Tây Nam và đào con kênh Vĩnh Tế để nói Châu Đốc và Hà Tiên, đồng thời thông thoáng giao thông trong việc giao thương, mua bán. Cụ thể trong ghi chép nói rõ: …
“Năm 1816, khi đắp xong thành Châu Đốc, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên vua Gia Long địa đồ miền đất mới. Xem xong, vua liền truyền: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to”. Không lâu sau, vua Gia Long hạ lệnh cho đào con kênh Vĩnh Tế để nối liền Hà Tiền và Châu Đốc. Người được triều đình Huế giao trọng trách đào con kênh vĩ đại này chính này là Thoại Ngọc Hầu.
Vâng lên vua, Thoại Ngọc Hầu cùng nhiều quan viên phụ trách bắt tay vào thực hiện. Sau khi hoàn thiện kế hoạch, công trình có chiều dài hơn 100km, rộng gần 50k chính thức khởi công vào ngày 15 tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819). Hơn 80,000 nhân lực gồm người Việt, người Khmer và bộ phận người Chăm từ Campuchia theo chân tướng quân Lê Văn Đức về cư trú tại vùng đất Châu Đốc được điều động vào công trình này.
Thực hiện được một thời gian ngắn, khoảng độ được hai tháng thì liên tục gặp trục trặc. Nhiều người chết do tai nạn, bệnh tật hoặc bị thú dữ tấn công mà không có cách nào khắc phục được.
Thoại Ngọc Hầu rất lo lắng và tìm mọi cách để giải quyết. Đang lúc bối rối thì vợ ông, bà Châu Thị Vĩnh Tế được dân mách bảo là đến dâng lễ cầu xin Bà Chúa Xứ ở chân núi Sam phù hộ. Do đã nghe tiếng linh thiêng bà đã lâu, nên khi được dân mách bảo, bà Vĩnh Tế liền làm lễ, dâng hương đến miếu cúng bái, cầu xin. Quả thật, sau khi dâng lễ xong thì việc đào kênh trở nên thuận lợi và dễ dàng. Những người tham gia công trình đào kênh thấy vậy rất phấn khởi nên công trình được đẩy nhanh tiến độ.
Mặc dù công trình đào kênh vẫn chưa hoàn thiện, nhưng để tạ ơn công đức Bà. Vợ chồng bà Vĩnh Tế đã cho xây dựng lại ngôi miếu to và khang trang hơn và thường xuyên đến khấn vái cầu cho ông Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ yên bình cho nhân dân. Cũng từ đó, danh tiếng về sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ được nhiều người truyền đi khắp nơi, khiến làm nhiều người ở xa nghe tin tìm đến cầu xin bà độ trì, ban phước.
Tướng giặc Xiêm mất mạng và câu chuyện 9 cô gái đồng trinh dời tượng Bà xuống núi
Chuyện kể, những năm 1820 – 1825, quân Xiêm thường xuyên quấy nhiễu nước ta, có lần chúng đuổi theo dân lên đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà. Nổi lòng tham, chúng muốn đem về nước nên ra sức khiêng tượng Bà xuống núi. Đi được một đoạn thì lạ thay tượng Bà nặng trĩu, không cách nào có thể nhấc lên được. Tức giận, một tên tướng rút đao chém gãy tay trái của bà, ngay lập tức hắn bị Bà trừng phạt, học máu chết ngay tại chỗ. Đám lính đứng xung quanh thấy vậy liền tái mặt, hoảng hồn bỏ chạy tán loạn, không một tên nào dám đứng lại. Kể từ đó, Bà thường hiện về tự xưng là Bà Chúa Xứ báo mộng cho dân và dạy dân cách lập miếu thờ để Bà phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp, thoát khỏi dịch bệnh.
Trước đây, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Trước sự linh ứng và mách bảo của Bà, người dân quyết định khiêng tượng Bà về đồng bằng để thờ cúng. Để di dời tượng bà, sau khi làm lễ cúng bái xong thì hơn 40 chàng trai lực lưỡng được điều vào khiêng tượng Bà xuống nhưng không cách nào nhấc lên được.
Đang lúc bối rối không biết làm sao hì có một cô gái “lên đồng” bảo rằng Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng là được. Quả thật như vậy, khi chín cô gái đồng trinh đưa tay cùng nhất thì tượng Bà bỗng rất nhẹ. Khiêng một hồi lâu, đến chân núi thì tượng Bà bất ngờ nặng trịch, không thể khiêng một bước nào nữa. Lúc này các bậc cao niên nghĩ rằng Bà chọn nơi đây để an vị và lập miếu thờ cúng ngay tại chỗ.
Sau khi di dời tượng Bà xuống chân núi Sam, ngôi miếu hàng năm được nhân dân thờ cúng trang nghiêm và thường xuyên tu bổ, tôn tạo. Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn không lý giải nổi là tượng bà từ đâu mà có. Ai đã đúc và đem đến đây. Do đó mà sự linh thiêng, huyền bí về Bà được nhiều người sợ hơn và thêu dệt lên bao câu chuyện.
Để tìm lời giải thích cho pho tượng thì năm 1941, một nhà khảo cổ học người Pháp tên Malleret đã đến nghiên cứu và cho rằng: “tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, chất lượng bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ VI, và rất có thể đây một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo”.
Bên cạnh công trình nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Pháp, trong công trình “Sơ khảo Đồng Bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa”, cố nhà văn Sơn Nam cũng đưa ra nhận định: “tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy”.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu của nhiều người đi trước, trong công trình nghiên cứu khoa học “Lịch sử khai phá vùng đất Châu Đốc” của ông Trần Văn Dũng cũng khẳng định: “Tượng Bà Chúa Xứ thực ra là tượng nam, ngồi ở tư thế hương giả, phần đầu của tượng hiện đang thờ tại miếu Bà không phải là nguyên gốc được chế sau bằng loại đá khác với thân tượng”.
Qua những nghiên cứu này thì có thể nói rằng, Tượng Bà Chúa Xứ đã có cách đây hơn 1.300 năm (lấy mốc thế kỷ VI của nhà khảo cổ học người Pháp), khi nền văn hóa Óc Eo còn thịnh vượng.
Trải qua khoảng thời gian hơn 200 năm mưa nắng với thời gian. Ngày nay, Miếu Bà Chúa Xứ không chỉ đóng vai tèo ý nghĩa tâm linh to lớn đối với người dân An Giang mà còn là chỗ dựa tâm linh vững chắc cho nhân dân trong khắp cả nước. Người hành hương đến viếng Bà bằng tất cả sự tôn kính để cầu mong cuộc sống được an yên, ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội Bà Chúa Xứ: ý nghĩa, các hoạt động
Hàng năm, cứ đến ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch thì ban quản lý cùng chính quyền nơi đây tổ chức lễ hội Vía Bà Chúa Xứ rất trang trọng. Thời gian lễ hội diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch với 5 nghi thức lễ khác nhau để người dân đến kính viếng, xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà… về làm ăn. Cụ thể lễ hội vía Bà Chúa Xứ gồm các phần như sau:
- Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.
- Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.
- Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).
- Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.
- Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.
Với nét tâm linh, tín ngưỡng đặc sắc của lễ hội vía Bà, năm 2005, lễ hội Vía Bà (lễ hội vía bà Chúa Xứ) được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
Lưu ý khi đi lễ Miếu Bà Chúa Xứ
- Một chuyến tham quan tại Miếu Bà Chúa Xứ nếu bạn muốn dâng hương, dâng hoa, đốt tiền vàng mã, … cho bà thì nên chuẩn bị trước ở nhà, điểm lưu trú hoặc điểm dừng chân. Tuyệt đối, không mua những đồ này tại khu vực miếu bà. Điều này giúp bạn không phải lâm vào những trường hợp khó xử.
- Thông thường những vật dùng để đi lễ, viếng Miếu Bà tại khu vực Miếu Bà rất đắt đỏ, bạn không nên mua tại đây. Nếu có mua thì phải hỏi trước giá cả, quyết định dứt khoát, không kèo nèo, lằng nhằng với người bán.
- Tuyệt đối không những những vật mà mình không biết khi có người khác dúi vào tay.
- Không trò chuyện với những người cứ nhìn chầm chầm vào mình hoặc bám theo mình nói những điều tâm linh.
- Tư trang cá nhân như vàng, bạc, tiền và điện thoại là những thứ cần giữ gìn cẩn thận khi đến đây.
- Khi vào Miếu Bà, tuyệt đối không suy nghĩ, nói lung tung. Điều này vô cùng quan trọng vì đó có nhiều người bị bà vặt vì những suy nghĩ và hành động không tốt.
- Không sử dụng trang phục quá ngắn, nhạy cảm khi đi viếng bà.
- Không quay phim, chụp ảnh hay tò mò đi vào những khu vực có bản cấm hoặc không có sự cho phép của ban quản lý.
- Muốn xin lộc bà về làm ăn thì đến bên trái khu vực điện thờ bà để xin.
- Xin bà những gì thì khi đạt được, nhất định phải trả lễ, không được thất hứa.
Địa chỉ, giá vé tham quan, giờ mở cửa Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam
- Địa chỉ: Miếu Bà Chúa Xứ – phường Núi Sam – thành phố Châu Đốc – tỉnh An Giang.
- Thời gian mở cửa: 6h00 – 20h00 hàng ngày.
- Giá vé tham quan: miễn phí.